[ad_1]
Khách thể là một thuật ngữ thường được sử dụng trong các mối quan hệ pháp luật mà nhiều người chưa nắm rõ. Bài viết này sẽ giải thích cho độc giả hiểu được khái niệm khách thể là gì và những vấn đề liên quan. Hãy cùng tham khảo nhé!
1. Khách thể là gì?
Khách thể là lợi ích vật chất, hoặc lợi ích về tinh thần, hoặc cả lợi ích về cả hai mặt mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định.
Tuy nhiên, một số người còn hiểu rằng khách thể là đối tượng của nhận thức và tác động lên chủ thể là con người có ý thức và ý chí.
Mặc dù hiện tại vẫn chưa có định nghĩa thống nhất nào về khách thể là gì? Nhưng dựa vào đặc điểm cụ thể của khách thể, chúng ta có thể đưa ra một số định nghĩa như trên.
2. Định nghĩa khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ nhưng bị xâm hại bởi tội phạm. Đó cũng là một yếu tố mà nếu thiếu sẽ không thể cấu thành nên tội phạm.
Có rất nhiều quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, luật hình sự chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Hiện nay, ta thấy có rất nhiều quan điểm khác nhau về khách thể của tội phạm nhưng đa số cho rằng khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội. Tuy vậy, có người cũng cho rằng, quan hệ xã hội chỉ là khách thể chung.
3. Khách thể của tội phạm gồm những loại nào?
Khách thể của tội phạm được khoa học luật hình sự chia làm ba loại: Khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
3.1. Khách thể chung của tội phạm
Khách thể chung của tội phạm là tổng thể các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm phạm. Bất cứ hành vi tội phạm nào cũng xâm hại đến khách thể chung của tội phạm.
Theo quy định của khoản 1, Điều 8 Bộ Luật hình sự năm 2015, khách thể chung của tội phạm là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; các chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, quyền và lợi ích cơ bản, hợp pháp khác của công dân và các mặt khác của trật tự pháp luật xã hội.
Chúng ta có thể nhận thấy được chính sách của Nhà nước, đồng thời phân biệt được tội phạm với các vi phạm pháp luật khác ngoài tội phạm thông qua nghiên cứu khách thể chung.
3.2. Khách thể loại của tội phạm
Đây là nhóm quan hệ xã hội với tính chất tương tự có mối liên hệ với nhau và bị xâm hại bởi một nhóm tội phạm.
Khách thể loại của tội phạm cho thấy trong Bộ luật hình sự chính là phần đầu đề của các chương quy định ở phần các tội phạm. Ví dụ: các tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân; tội xâm phạm hôn nhân và gia đình; các tội liên quan đến vi phạm trật tự quản lý kinh tế v.v.
Trong công tác lập pháp, chủ yếu là nghiên cứu khách thể loại của tội phạm. Đây là căn cứ để hệ thống và sắp xếp mỗi chương trong phần riêng của Bộ luật hình sự sao cho phù hợp với tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Dựa trên cơ sở này, chúng ta có thể phân biệt được các nhóm tội phạm khác nhau được quy định trong Bộ luật hình sự.
3.3. Khách thể trực tiếp của tội phạm
Khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội cụ thể bị xâm hại trực tiếp bởi một đối tượng tội phạm cụ thể. Đây cũng chính là yếu tố tiên quyết để cấu thành tội phạm theo quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Mỗi hành vi phạm tội thông thường sẽ xâm phạm đến một khách thể trực tiếp. Tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều trường hợp một hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều khách thể, nhưng dựa vào nhiều yếu tố khác như: ý thức chủ quan và khách quan, hoặc những hậu quả đã gây ra, mà người có thẩm quyền quy định dấu hiệu bắt buộc của tội phạm là khách thể trực tiếp nào, còn những tình tiết phụ khác có tính chất tăng nặng trách nhiệm hình sự là các khách thể nào.
Ví dụ: Hành vi cướp tài sản xâm phạm cùng lúc hai khách thể là quan hệ tính mạng con người và sở hữu tài sản. Tuy nhiên, căn cứ vào động cơ của tội phạm là nhằm chiếm đoạt tài sản nên tòa án sẽ xem dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm là quan hệ sở hữu.
Người làm luật thường quy định đối tượng tác động là khách thể trực tiếp chứ rất ít quy định ngay trong cấu thành tội phạm. Đây là đặc điểm dễ gây nhầm lẫn giữa khách thể với đối tượng tác động cho nhiều người.
Ví dụ: Do nhiều nhà làm luật chỉ quy định nhằm chiếm đoạt, hoặc gây thiệt hại tài sản, nên trong tội xâm phạm quan hệ sở hữu, người ta thường cho rằng khách thể trực tiếp là tài sản mà không thấy rằng quan hệ sở hữu về tài sản mới chính là khách thể trực tiếp.
Muốn xác định được khách thể trực tiếp, ta phải vừa dựa vào điều luật quy định về tội phạm đó xâm phạm đến cái gì, vừa phải dựa vào các chi tiết cấu thành nên tội phạm khác như: động cơ, mục đích, lỗi, các yếu tố khách quan, đặc điểm của chủ thể…
4. Một số ví dụ về khách thể của tội phạm
Ví dụ số 1
Hành vi cướp tài sản không chỉ xâm hại quan hệ nhân thân mà còn gây hại đến quan hệ sở hữu. Sự nguy hiểm của hành vi cướp tài sản chỉ trở nên rõ ràng khi các quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu bị xâm phạm. Vì vậy, cả hai khách thể đều là khách thể trực tiếp của tội phạm.
Khách thể trực tiếp là căn cứ thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp xác định đúng tội danh và đánh giá đúng tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này.
Ví dụ số 2
Ông A có hành vi trộm cắp tài sản của ông B. Hành vi này xâm hại đến khách thể trực tiếp là quyền sở hữu của ông B. Đồng thời khách thể chung và là quyền sở hữu của công dân (khách thể loại) cũng bị gây hại đến.
Tội phạm có thể gây thiệt hại cho nhiều khách thể, nhưng không phải tất cả đều được coi là khách thể trực tiếp. Khi đó, khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội mà theo đó tội phạm gây ra thiệt hại thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm của hành vi phạm tội.
5. Các yếu tố khác cấu thành nên tội phạm
Không chỉ xét đến yếu tố khách thể, ta còn phải xem xét đến các yếu tố cấu thành tội phạm khác như: chủ thể, mặt chủ quan và mặt khách quan. Cụ thể:
Chủ thể
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, chủ thể tội phạm bao gồm hai đối tượng: cá nhân và pháp nhân thương mại.
Cá nhân có hành vi phạm tội, đủ khả năng nhận thức về hành vi của mình, đạt độ tuổi theo luật định và chịu toàn bộ trách nhiệm về hành vi mình gây ra là chủ thể tội phạm. Hành vi phạm tội đó được quy định theo pháp luật hình sự. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, ngoài những tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm còn có thể là pháp nhân thương mại. Không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân khi pháp nhân thương mại phạm tội và chịu trách nhiệm hình sự. Cá nhân trong pháp nhân thương mại vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi trái pháp luật, mặc dù pháp nhân đó do cá nhân làm chủ đã chịu trách nhiệm hình sự.
Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Lỗi là trạng thái tâm lý của tội phạm được đánh giá dưới góc độ động cơ, mục đích của hành vi.
-
Lỗi vô ý là khi người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây nguy hại hoặc không gây nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả của hành vi sẽ chưa xuất hiện hoặc hậu quả có thể khắc phục được. Lỗi vô ý được xếp vào loại lỗi vô ý do bất cẩn quá mức và quá tự tin.
-
Lỗi cố ý là khi người thực hiện nhận thức được tác hại của hành vi của mình đối với xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra. Lỗi cố ý được chia thành hai loại là: cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
Mặt khách quan
Đặc điểm khách quan của tội phạm thể hiện qua tính chất nguy hiểm của hành vi; hậu quả của hành vi; công cụ, tài nguyên, thủ thuật,… phục vụ cho việc thực hiện hành vi đó.
Trên đây là toàn bộ thông tin về khái niệm khách thể là gì, khách thể của tội phạm và những vấn đề xoay quanh nó mà chúng tôi đã tổng hợp được. Hy vọng bài viết này có thể giúp ích cho bạn trong học tập và nghiên cứu. Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ 19006192 để được LuatVietnam hỗ trợ, giải đáp cụ thể.